EDWARD CONZEEdward Conze sinh ngày 18 tháng 3 năm 1904 tại Forest Hill, Lewisham, London, Anh Quốc, trong một gia đình gốc Đức. Ông là triết gia và là một nhà nghiên cứu Phật học lỗ lạc, đã phiên dịch và sắp xếp bộ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa theo hệ thống và góp phần truyền bá tư tưởng Đại thừa khắp châu Âu, châu Mỹ. Đối với Phật tử châu Âu, những trước tác của ông là tài liệu nghiên cứu tu tập Phật pháp quý báu không thể bỏ qua được. Cha ông trước là một nhân viên ngoại giao, sau chuyển sang ngành tòa án, làm việc tại Dűsseldorf, CHLB Đức. Conze trưởng thành và được giáo dục tại Đức với tên gọi là Eberhard. Nơi đây, ông sớm biểu hiện những cá tính đặc thù sự cảm nhận nhạy bén trước những vấn đề xã hội, lòng căm phẫn trước những trào lưu ái quốc cực đoan của Đức quốc xã, lòng yêu thiên nhiên và cuộc sống tĩnh mịch ở thôn quê. Năm lên 13 tuổi, Conze có dịp biết về Phật giáo. Ông học triết, tâm lý và Ấn Độ học tại những đại học Tbingen, Heidelberg, Kiel và Koln. Tại Heidelberg, vào khoảng những năm 1924-1925, ông được Max Walleser, một trong những người đầu tiên dịch kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa sang tiếng Đức, hướng dẫn đi vào Phật giáo Đại thừa. Sau đó, nhờ Heinrich Rickert, ông có dịp làm quen với Thiền tông. Năm 1928, ông làm luận án tiến sĩ tại Koln. Năm 1932, ông cho xuất bản tác phẩm Phương thức đối lập. Bình luận về lý thuyết Duy vật biện chứng. Vì những hành vi chống Đức quốc xã nên ông phải rời CHLB Đức vào năm 1933, sang tị nạn tại Anh quốc, và không lâu sau, ông nhập quốc tịch Anh. Từ năm 1933 trở đi, ông dạy tâm lý và triết học tại Oxford và London. Các tác phẩm của Daisetz Teitaro Suzuki và một học giả Ấn Độ là Har Dayal lại hướng dẫn ông trở về với Phật giáo. Từ năm 1943 đến 1949, ông nghiên cứu rất nhiều về Ấn Độ học, gia nhập Hội Phật giáo tại London và cũng tổ chức nhiều buổi thuyết giảng. Trong những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông cho xuất bản khoảng 20 quyển sách và hơn 100 tiểu luận về những vấn đề của Phật giáo, và chính những tác phẩm này đã làm cho tên tuổi ông lan truyền khắp thế giới. Ông đã từng thuyết giảng tại Wisconsin, Madison, Washington, Seattle, Bonn, Berkeley, Santa Barbara... Năm 1973, Conze ngưng việc thuyết giảng, lui về sống tại Sherborne, Somerset, và từ đó chuyên chú vào việc nghiên cứu Phật học. Trọng tâm nghiên cứu của ông là triết lý Bát-nhã, và về chủ đề này, ông đã xuất bản hàng loạt tiểu luận. Ông cũng đã dịch sang Anh ngữ và xuất bản nhiều kinh văn thuộc hệ này. Năm 1979, ông cho ra đời quyển hồi ký với tựa đề The Memoirs of a Modern Gnostic, trong đó ông tự cho mình là một người có cá tính mâu thuẫn. Conze có một cái nhìn, một cảm nhận sâu sắc cho những vấn đề, nhân sinh quan khác biệt của thế kỷ này. Quyển hồi ký của ông đã chứng tỏ khả năng nghệ thuật dung hợp nhiều quan điểm của ông. Ông mất ngày 24 tháng 9 năm 1979 tại Yeovil, Somerset, London. Read More Read Less